TCT2.00 đáp ứng thông tin về yêu cầu (ra lệnh) tốc độ cho máy chính từ cabin (buồng) lái xuống buồng máy và thông tin trả lệnh từ buồng máy lên buồng lái. Khi cần ra lệnh người vận hành ấn nút hoặc dịch tay trang lệnh tương ứng với yêu cầu. Các lệnh được chia làm 3 nhóm: tiến (AHEAD), lùi (ASTRN) và chế độ (STOP, STD.BY, FINISH, A.SEA). Mỗi nhóm tiến và lùi đều có 04 lệnh tương ứng với tốc độ yêu cầu: D.SLOW, SLOW, HALF, FULL. Sau khi (chuyển mạch) hoặc ấn nút lệnh trên bất cứ trạm nào thì đèn tương ứng với lệnh ở hai trạm cùng sáng nhấp nháy, chuông kêu cho đến khi người trả lệnh ở trạm khác trả đúng (chuyển mạch) hoặc nút lệnh đã phát ra thì đèn lệnh ở hai trạm sáng liên tục, chuông tắt. Nếu người trả lệnh không trả đúng lệnh thì hệ thống không thay đổi trạng thái trừ khi trả lệnh ngược với hướng phát lệnh [ví dụ: phát các lệnh ahead (astrn) mà trả các lệnh astern (ahead)] thì đèn báo “WR” sẽ sáng nhấp nháy báo lỗi wrong way, để trở về trạng thái bình thường ta chỉ việc trả lại lệnh đúng với hướng phát lệnh hoặc đúng nút lệnh đã phát ở trạm kia. Hệ thống có 03 chế độ cấu hình:

Chế độ 1: gồm 02 trạm là buồng lái (master – Wheel house) với buồng điều khiển máy (slave – engine control room) hoặc buồng máy (slave – engine room). Trong chế độ này không cần sử dụng nút ấn SV/BZ.C (Service/Buzzer Control) để chọn trạm slave để giao tiếp mà trạm giao tiếp là mặc định (khi trạm slave được chọn thì đèn SC sáng liên tục một màu xanh). Nếu người vận hành cố tình chọn lại trạm để giao tiếp bằng cách ấn nút SV/BZ.C (ở trạm slave) thì đèn AC sẽ sáng nhấp nháy xanh/đỏ báo lỗi truyền thông ở trạm master, để đưa hệ thống về trạng thái bình thường ta phải chọn lại trạm giao tiếp bằng cách ấn nút SV/BZ.C đèn SC sáng liên tục màu xanh.

Chế độ 2: gồm 03 trạm là buồng lái (master – Bridge house) với buồng điều khiển máy (engine control room) và buồng máy (slave – engine room). Chọn trạm slave để giao tiếp thông qua nút ấn SV/BZ.C (ở trạm slave) để chọn trạm xanh hoặc đỏ, trạm slave không được chọn còn lại chỉ có chức năng hiển thị lệnh thông qua đèn báo và đền SC sáng màu đỏ. Thường để trạm có địa chỉ màu đỏ là buồng điều khiển máy (engine control room) và trạm có địa chỉ màu xanh buồng máy (slave – engine room).

Trong cả 2 chế độ đối với trạm slave, ấn nút SV/BZ.C để cướp trả lệnh từ slave khác (khi đèn SC của nó đang sáng màu đỏ) hoặc ấn nút SV/BZ.C để nhường trả lệnh cho slave khác (khi đèn SC của nó đang sáng màu xanh). Trong trạm buồng lái – master sử dụng nút ấn SV/BZ.C để chọn tắt hoặc có chuông buồng lái, mặc định ở chế độ có chuông. Khi nhấn và giữ nút SV/BZ.C liên tục thì chuông sẽ kêu/tắt tuần hoàn với chu kỳ 2.5s, khi ta nhả tay ra ở trạng thái chuông như thế nào là chọn chế độ đó. TCT2.00 có hai chế độ dự phòng đó là dự phòng nguồn và dự phòng mạng. Ở chế độ dự phòng nguồn thì nguồn chính là 24VDC từ bộ converter 220VAC/24VDC và nguồn dự phòng là 24VDC từ ắc quy. Hệ thống có thể làm việc bình thường trong trường hợp chỉ đấu nối một chế độ chính hoặc chỉ đấu nối một chế độ dự phòng. Ngoài ra, đối với TCT2.00 nó có thể được sử dụng kết hợp cả chức năng điều khiển tốc độ diesel chính bằng cách sử dụng thêm lựa chọn phụ (option).